Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1. Người nào thực hiện
một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ
4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử
phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội
này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172,
173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài
sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt
cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài
sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng
rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến
thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả;
b) Vay, mượn, thuê tài
sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng
và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả
lại tài sản.
2. Phạm tội thuộc một
trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chuyên
nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản
trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Dùng thủ đoạn xảo
quyệt;
e) Gây ảnh hưởng xấu đến
an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
g) Tái phạm nguy hiểm.
3. Phạm tội chiếm đoạt
tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ
05 năm đến 12 năm.
4. Phạm tội chiếm đoạt
tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
5. Người phạm tội còn
có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức
vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch
thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
- Căn cứ theo điểm a, khoản
1 nêu trên, người nào vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài
sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ
trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có
điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả thì sẽ bị khởi tố về “tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo Điều 175 Bộ luật hình sự, mức hình phạt
cao nhất của tội này có thể lên đến 20 năm tù và cũng có thể bị tịch thu toàn bộ
tài sản (tuỳ theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi…);
- Có thể coi đây là một
sự tiến bộ mang tính đột phá về mặt lý thuyết trong quá trình sửa đổi, hoàn thiện
các quy định của pháp luật có liên quan, tuy nhiên, để có thể khởi tố về mặt hình
sự đối với người “đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả
năng nhưng cố tình không trả” thì cần thoả mãn ít nhất 2 điều kiện sau:
+ Đến thời hạn trả;
+ Trong thời hạn phải trả, người phạm tội
có điều kiện, có khả năng trả lại tài sản nhưng cố tình không trả, do đã tiêu xài
hết (nhảy múa hát ca, tẩu tán tài sản…)
Luật thì quy định
tương đối rõ ràng như vậy, nhưng trên thực tế dù có duyên với các vụ án đòi nợ
nhưng bản thân chưa chứng kiến và hầu như chưa đọc được tin tức vụ án nào bị khởi
tố theo điểm a, khoản 1 nêu trên, có thể do các nguyên nhân chính sau đây:
- Người dân (yêu cầu
khởi tố) gặp rất nhiều khó khăn trong việc: Nộp đơn, thu thập và cung cấp các tài
liệu, chứng cứ để chứng minh “có tài sản nhưng không trả…”, nhiều công việc người
dân không thể tự thực hiện được (ví dụ xác minh về bất động sản, về các thông
tin riêng tư của người khác..);
- Thiếu nhân sự hoặc
chưa “luật hoá” cơ chế hỗ trợ người dân ở giai đoạn tiền tố tụng (hỗ trợ điều
tra, xác minh và thu thập chứng cứ do người dân không thể hoặc không có thẩm
quyền để tự thu thập trong một số lĩnh vực).
- Mất nhiều thời gian
trong việc điều tra, xác minh ở giai đoạn tiền tố tụng (hoặc phụ thuộc vào ý chí
chủ quan của cơ quan có thẩm quyền để đưa ra quyết định xác minh hay không…).
Để pháp luật có tính
khả thi thì càng phải cần thể hiện tính minh bạch, chi tiết, rõ ràng, dễ vận dụng,
sát với đời sống thực tế của người dân, có nhiều quy định của pháp luật đã bị thiếu tính khả thi
ngay từ khâu bắt đầu, ví dụ khâu nộp đơn yêu cầu khởi tố vụ án: Cán bộ yêu cầu
dân cung cấp chứng cứ đủ thì mới nhận đơn, dân thì lại không thể tự thu thập được
(hoặc không có thẩm quyền tự thu thập được trong một số lĩnh vực…), cán bộ điều
tra thì không có cơ chế pháp lý rõ ràng để hỗ trợ dân điều tra, xác minh ban đầu
(khi chưa khởi tố vụ án)… cuối cùng điều luật khó có tính khả thi trên thực tế,
người hứng chịu mất mát nhiều nhất vẫn là người dân!
0 Nhận xét