Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông
qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày
17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm số 12/2013/KDTM-GĐT ngày
16-5-2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về vụ án kinh doanh,
thương mại “Tranh chấp về hợp đồng tín dụng” tại thành phố Hà Nội giữa nguyên
đơn là Ngân hàng thương mại cổ phần ngoại thương Việt Nam với bị đơn là Công ty
cổ phần dược phẩm Kaoli; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan gồm các ông,
bà Nguyễn Thị Phượng, Nguyễn Đăng Duyên, Đỗ Thị Loan.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 16 phần “Xét thấy” của quyết định giám đốc thẩm
nêu trên.
Khái quát nội dung của án lệ:
- Tình huống án lệ:
Trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về lãi
suất cho vay, gồm: lãi suất cho vay trong hạn, lãi suất nợ quá hạn, việc điều
chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng, tổ chức tín dụng cho
vay mà đến thời điểm xét xử sơ thẩm khách hàng vay chưa thanh toán, hoặc thanh
toán không đủ số tiền nợ gốc, lãi theo hợp đồng tín dụng.
- Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán
cho Ngân hàng, tổ chức tín dụng khoản tiền nợ gốc chưa thanh toán, tiền lãi
trên nợ gốc trong hạn (nếu có), lãi nợ quá hạn của số tiền gốc chưa thanh toán
theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán
xong khoản nợ gốc này. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh mức
lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay thì
lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán theo quyết định của Tòa án
cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng,
tổ chức tín dụng cho vay.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
- Các điều 471, 474 và Điều 476 Bộ luật dân sự 2005;
- Khoản 2 Điều 91 Luật Tổ chức tín dụng năm 2010;
- Khoản 1 Điều 1 Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày
14-4-2010 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng
Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận;
- Khoản 2 Điều 11 Quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng
đối với khách hàng được ban hành theo
Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31-12-2001 của Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước được sửa đổi, bổ sung bằng Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN ngày
03-2-2005.
Từ khóa của án lệ:
“Lãi suất”; “Nợ gốc chưa thanh toán”; “Hợp đồng
tín dụng”; “Điều chỉnh lãi suất”; “Lãi suất nợ quá hạn”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện đề ngày
20-7-2010 và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì thấy:
Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng
Long (sau đây viết tắt là Vietcombank) và Công ty Cổ phần Dược phẩm Kaoli (sau đây viết tắt
là Công ty Kaoli) có ký kết 04
hợp đồng tín dụng, gồm: Hợp đồng tín dụng
số 03/07/NHNT-TL ngày 25-12-2007; số 04/07/NHNT-TL ngày 28-12-2007; số
144/08/NHNT-TL ngày 28-3-2008 và số 234/08/NHNT-TL ngày 27-5-2008. Các hợp đồng
tín dụng nêu trên được bảo đảm bằng tài sản là quyền sở hữu nhà ở và quyền sử
dụng đất ở tại:
- Số 122 Đội Cấn, phường Đội Cấn,
quận Ba Đình, thành phố Hà Nội (thửa đất số 46B+39C+37C, tờ bản đồ số 19) thuộc
quyền sở hữu và sử dụng của bà Nguyễn Thị Phượng (theo Hợp đồng thế chấp số
1678.2008/HĐTC ngày 25-6-2008; bảo đảm cho khoản vay và bảo
lãnh cao nhất là 4.605.000.000 đồng; các điều kiện chi
tiết về việc vay và cho vay khoản tiền nêu trên sẽ được ghi cụ thể trong các
giấy tờ nghiệp vụ ngân hàng mà Vietcombank và Bên được bảo lãnh (Công ty Kaoli)
sẽ ký tại trụ sở của Vietcombank (khoản 1.3 Điều 1); giá trị tài sản thế chấp
là 4.605.000.000 đồng theo Biên bản định giá tài sản số 105/08/NHNT.TL; thời
hạn thế chấp là 05 năm tính từ ngày Bên được bảo lãnh nhận tiền vay; hợp đồng
có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất
(khoản 10.1 Điều 10). Hợp đồng này được công chứng viên Phòng Công chứng số 3
thành phố Hà Nội công chứng ngày 25-6-2008 và Phòng Tài nguyên và môi trường quận Ba Đình chứng nhận đăng ký thế chấp bằng quyền sử dụng đất,
tài sản gắn liền với đất ngày 10-7-2008). Trước đó, ngày 03-9-2007, bà Phượng
và Vietcombank lập Biên bản giao nhận hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh với nội dung: “Hai bên tiến hành bàn giao các giấy
tờ bản chính tài sản bảo đảm sau đây để đảm bảo cho các nghĩa vụ của Công ty cổ
phần dược phẩm Kaoli tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam - Chi
nhánh Thăng Long; tên tài sản: Quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại
122 Đội Cấn, phường Đội Cấn, quận Ba Đình, Hà Nội” (BL 52).
- Tổ 13 cụm 2 phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, thành
phố Hà Nội thuộc quyền sở hữu và sử dụng của ông Nguyễn Đăng Duyên và vợ là bà
Đỗ Thị Loan (theo Hợp đồng thế chấp số 1677.2008/HĐTC ngày 25-6-2008, bảo đảm cho khoản vay và bảo
lãnh cao nhất là 1.250.000.000 đồng; các điều kiện chi
tiết về việc vay và cho vay khoản tiền nêu trên sẽ được ghi cụ thể trong các
giấy tờ nghiệp vụ ngân hàng mà Vietcombank và Bên được bảo lãnh (Công ty Kaoli)
sẽ ký tại trụ sở của Vietcombank (khoản 1.3 Điều 1); giá trị tài sản thế chấp
là 1.250.000.000 đồng theo Biên bản định giá tài sản số 106/08/NHNT.TL ngày
03-9-2007 (khoản 3.1 Điều 3); thời hạn thế chấp là 05 năm tính từ ngày Bên được
bảo lãnh nhận tiền vay; hợp đồng có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký tại Văn
phòng đăng ký quyền sử dụng đất (khoản 10.1 Điều 10); hợp đồng này được công
chứng viên Phòng Công chứng số 3 thành phố Hà Nội công chứng ngày 25-6-2008 và
Phòng Tài nguyên và môi trường quận Ba Đình chứng nhận đăng
ký thế chấp bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất ngày 01-7-2008).
Trước đó, ngày 03-9-2007, ông Nguyễn Đăng Duyên và Vietcombank - Chi nhánh
Thăng Long lập Biên bản giao nhận hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh với nội dung: “Hai bên tiến hành bàn giao các giấy
tờ bản chính tài sản bảo đảm sau đây để đảm bảo cho các nghĩa vụ của Công ty cổ
phần dược phẩm Kaoli tại Ngân hàng ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng
Long; tên tài sản: Quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại tổ 13 cụm 2
phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, Hà Nội” (BL 58a).
Ngoài ra, các khoản vay của các
hợp đồng tín dụng nêu trên còn được bảo đảm bằng tài sản là nhà, đất thuộc
quyền sử dụng và sở hữu của ông Cao Ngọc Minh và vợ là bà Đoàn Thị Thanh Thủy;
nhà, đất của ông Giang Cao Thắng và vợ là bà Dương Thị Sinh (đã được giải
chấp); quyền sử dụng đất của ông Chu
Quốc Khanh; nhà, đất của bà Chu Thị Hồng và ông Nguyễn Văn Minh.
Thực hiện hợp đồng, Vietcombank -
Chi nhánh Thăng Long đã giải ngân cho Công ty Kaoli vay số tiền theo các hợp
đồng tín dụng nói trên. Công ty Kaoli chỉ mới trả được một phần tiền nợ gốc và
nợ lãi. Vietcombank khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty Kaoli phải thanh toán
số tiền còn nợ của 04 hợp đồng tín dụng nêu trên là 8.197.957.837 đồng (trong
đó: nợ gốc là 5.457.000.000 đồng, nợ lãi trong hạn là 397.149.467 đồng, nợ lãi
quá hạn tính đến ngày xét xử sơ thẩm là 2.343.808.370 đồng) và xử lý tài sản
thế chấp của bà Nguyễn Thị Phượng; của ông Nguyễn Đăng Duyên và bà Đỗ Thị Loan
để thu hồi nợ.
Đại diện bị đơn - ông Đỗ Văn
Chính, giám đốc Công ty Kaoli trình bày: Ông thừa nhận Công ty Kaoli còn nợ
Vietcombank số tiền gốc và lãi trong hạn, lãi quá hạn theo 04 Hợp đồng tín dụng
như Vietcombank trình bày là đúng. Ông xác định trách nhiệm trả nợ theo 04 hợp
đồng tín dụng nêu trên là của Công ty Kaoli và xin trả dần trong thời hạn 05
năm.
Trường hợp Công ty Kaoli không trả
được nợ hoặc trả nợ không đầy đủ, Vietcombank yêu cầu phát mại tài sản đảm bảo
của bà Nguyễn Thị Phượng, của ông Nguyễn Đăng Duyên và bà Đỗ Thị Loan thì đề
nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Ông Chính xác nhận
Vietcombank giải ngân trước khi ký kết Hợp đồng thế chấp số 1678.2008/HĐTC ngày
25-6-2008 và Hợp đồng thế chấp số 1677.2008/HĐTC ngày 25-6-2008. Từ ngày
25-6-2008 đến nay, Công ty Kaoli không vay thêm một khoản vay nào khác, không
ký hợp đồng tín dụng nào khác với Vietcombank.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan trình bày:
- Ông Nguyễn Văn Nghi (đại diện
theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Phượng) trình bày: Vietcombank khởi kiện Công
ty Kaoli và đề nghị Tòa án cho phát mại tài sản của bà Phượng trong trường hợp
Công ty Kaoli không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, ông không đồng ý vì bà Phượng ký
kết hợp đồng thế chấp vào ngày 25-6-2008 nên không phải chịu trách nhiệm bảo
lãnh cho khoản vay của Công ty Kaoli tại Vietcombank theo 04 hợp đồng tín dụng
mà Vietcombank đang khởi kiện. Đề nghị Tòa án buộc Vietcombank làm thủ tục giải
chấp và trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở cho bà
Phượng.
- Ông Nguyễn Đăng Duyên và bà Đỗ
Thị Loan cùng trình bày: Vợ chồng ông, bà có ký Hợp đồng thế chấp ngày
25-6-2008 nhưng hợp đồng này chỉ đảm bảo cho khoản vay của Công ty Kaoli tại
Vietcombank và sẽ chịu mọi trách nhiệm phát sinh từ thời điểm sau ngày
25-6-2008 đến ngày 25-4-2009 còn toàn bộ những hợp đồng tín dụng đã ký trước
thời điểm ngày 25-6-2008 giữa Vietcombank và Công ty Kaoli thì ông, bà không
chịu trách nhiệm. Theo Vietcombank thì từ sau thời điểm ngày 25-6-2008 đến nay,
Vietcombank không ký hợp đồng tín dụng nào với Công ty Kaoli. Do vậy, trách nhiệm
pháp lý của ông, bà chưa phát sinh. Đề nghị Tòa án buộc Vietcombank phải giải
chấp tài sản theo Hợp đồng thế chấp ngày 25-6-2008 cho ông, bà.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại
sơ thẩm số 32/2011/KDTM-ST ngày 24-3-2011, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội quyết
định:
“1. Chấp nhận một phần yêu cầu
khởi kiện của Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam đối với Công ty Kaoli. Buộc
Công ty Kaoli có trách nhiệm phải trả cho Ngân hàng tổng số tiền nợ gốc và lãi
là 8.197.957.837 đồng.
2. Không chấp nhận yêu cầu của
Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam đòi phát mãi các tài sản là giá trị quyền
sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại thửa đất số 46B + 39C + 37C, tờ bản đồ
số 19, địa chỉ số 122 Đội Cấn, phường Đội Cấn, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội
theo Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 10101132587
do Uỷ ban nhân dân quận Ba Đình cấp ngày 27-4-2004 cho bà Nguyễn Thị Phượng và
giá trị quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại địa chỉ số tổ 13, cụm 2,
phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, thành phố Hà Nội theo Giấy chứng nhận quyền sở
hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở tại thửa đất số 13+64A (1 phần), tờ bản đồ số
04 tại địa chỉ số tổ 13 cụm 2, phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, Hà Nội theo Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 10103090899 do Ủy ban
nhân dân thành phố Hà Nội cấp ngày 23-3-2004 cho ông Nguyễn Đăng Duyên và vợ là
bà Đỗ Thị Loan.
Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt
Nam có trách nhiệm trả lại đầy đủ giấy tờ về quyền sở hữu nhà ở và quyền sử
dụng đất ở và làm thủ tục giải tỏa tài sản thế chấp cho bà Nguyễn Thị Phượng và
vợ, chồng ông Nguyễn Đăng Duyên, bà Đỗ Thị Loan”.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn
có quyết định về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của
pháp luật.
Ngày 04-4-2011, Vietcombank có đơn
kháng cáo.
Tại Bản án kinh doanh, thương mại
phúc thẩm số 148/2011/KDTM-PT ngày 17-8-2011, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối
cao tại Hà Nội căn cứ khoản 2 Điều 275 và khoản 1 Điều 276 Bộ luật tố tụng dân
sự quyết định:
“Sửa Bản án kinh doanh, thương mại
sơ thẩm số 32/2011/KDTM-ST ngày 23 và 24-3-2011 của Tòa án nhân dân thành phố
Hà Nội về phần nghĩa vụ bảo lãnh đối với bà Nguyễn Thị Phượng và vợ, chồng ông
Nguyễn Đăng Duyên, bà Đỗ Thị Loan, cụ thể như sau:
Xử: Các Biên bản bàn giao hồ sơ
tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh
ngày 03-9-2007 giữa Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long
với bà Nguyễn Thị Phượng và vợ chồng ông Nguyễn Đăng Duyên, bà Đỗ Thị Loan là
hợp đồng bảo lãnh (các bút lục số 52, 58a).
Buộc Công ty cổ phần dược phẩm
Kaoli phải có trách nhiệm thanh toán trả cho Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt
Nam tổng số tiền nợ gốc và nợ lãi là 8.197.957.837 đồng...
Trong trường hợp Công ty cổ phần
dược phẩm Kaoli không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ trả nợ không
đầy đủ cho Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam thì Ngân hàng TMCP ngoại thương
Việt Nam có quyền yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý tài sản
bảo lãnh theo quy định của Luật thi hành án dân sự để thu hồi nợ theo trách
nhiệm bảo lãnh của người bảo lãnh.
...Kể từ ngày bản án có hiệu lực
pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi
hành án còn phải trả lãi đối với số tiền chậm thi hành án theo lãi suất cơ bản
do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm thi hành án”.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn
quyết định về án phí, về việc thi hành án.
Sau khi xét xử phúc thẩm, bà
Nguyễn Thị Phượng; ông Nguyễn Đăng Duyên và bà Đỗ Thị Loan có nhiều đơn đề nghị
xét lại bản án phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.
Tại Quyết định kháng nghị số
34/2012/KDTM-KN ngày 15-10-2012, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đề nghị Hội
đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm theo
hướng hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 148/2011/KDTM-PT ngày
17-8-2011 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội; giao hồ sơ vụ
án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại
theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại
diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với kháng nghị của Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao.
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao nhận định:
Xét các Hợp đồng thế chấp
quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất để bảo lãnh cho người thứ ba vay
vốn ngân hàng (Số công chứng: 1677.2008/HĐTC và 1678.2008/HĐTC cùng ngày
25-6-2008) thấy:
Cả hai hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất để bảo lãnh cho người thứ ba vay vốn ngân
hàng đều không nêu rõ bảo đảm cho khoản vay theo hợp đồng tín dụng nào và đều
được ký kết sau khi 04 Hợp đồng tín dụng (số 03/07/NHNT-TL ngày 25-12-2007; số
04/07/NHNT-TL ngày 28-12-2007; số
144/08/NHNT-TL ngày 28-3-2008 và số 234/08/NHNT-TL ngày 27-5-2008) đã
được Vietcombank - Chi nhánh Thăng Long giải ngân. Theo quy định tại khoản 1.3
Điều 1 của hai Hợp đồng thế chấp nêu trên thì: “Các điều kiện chi tiết về việc
vay và cho vay khoản tiền nêu trên (Nghĩa vụ được bảo đảm là khoản vay và bảo
lãnh cao nhất là 4.605.000.000 đồng...; - khoản 1.2 Điều 1 Hợp đồng thế chấp)
sẽ được ghi cụ thể trong giấy tờ nghiệp vụ Ngân hàng mà bên B (Vietcombank -
Chi nhánh Thăng Long) và bên được bảo lãnh sẽ ký tại trụ sở của bên B
(Vietcombank - Chi nhánh Thăng Long)” thì có thể hiểu bà Phượng, vợ chồng ông
Duyên và bà Loan chỉ bảo lãnh cho Công ty Kaoli vay tiền theo các hợp đồng tín
dụng sẽ được ký tại trụ sở của Vietcombank sau ngày ký hợp đồng thế chấp (ngày
25-6-2008) chứ không bảo lãnh cho các khoản vay của 04 Hợp đồng tín dụng đã ký
trước đó.
Vietcombank căn cứ vào khoản 6.2
Điều 6 của 04 Hợp đồng tín dụng nêu trên về biện pháp bảo đảm tiền vay có ghi
(viết tay) nội dung: “Các thỏa thuận chi tiết về tài sản, quyền và nghĩa vụ của
các bên được xác định cụ thể trong...Hợp đồng thế chấp số 1677.2008/HĐTC ngày
25-6-2008 và Hợp đồng thế chấp số 1678.2008/HĐTC ngày 25-6-2008” để yêu cầu Tòa
án buộc bà Phượng, vợ chồng ông Duyên và bà Loan phải có trách nhiệm bảo lãnh
đối với các khoản vay của Công ty Kaoli theo 04 Hợp đồng tín dụng nêu trên.
Nhưng nội dung này, theo đại diện Vietcombank trình bày tại phiên tòa sơ thẩm
là “do kế toán của Ngân hàng viết”. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Đỗ Văn Chính -
Giám đốc Công ty Kaoli trình bày: “Công ty Kaoli không biết việc viết thêm này”
và “Không đồng ý với yêu cầu phát mại của Ngân hàng. Các tài sản của bà Phượng
và vợ chồng ông Duyên, bà Loan là do Ngân hàng ghi thêm trong các hợp đồng tín
dụng”.
Mặt khác, tại phiên tòa phúc thẩm
đại diện theo ủy quyền của bà Nguyễn Thị Phượng cho biết bà Nguyễn Thị Phượng
không nhận được hợp đồng tín dụng nào từ Vietcombank; còn ông Duyên, bà Loan
thì có nhận được hợp đồng tín dụng từ Vietcombank. Như vậy, ông Chính, bà
Phượng và vợ chồng ông Duyên, bà Loan không biết nội dung chữ viết tay do kế
toán Ngân hàng ghi trong các hợp đồng tín dụng, không ký vào hợp đồng tín dụng
cho nên chưa có căn cứ để xác định các hợp đồng tín dụng nêu trên được bảo đảm
bằng các Hợp đồng thế chấp số 1677.2008/HĐTC và 1678.2008/HĐTC cùng ngày
25-6-2008.
Bên cạnh hai hợp đồng thế chấp nêu
trên thì trong hồ sơ vụ án có 02 bộ tài liệu liên quan đến việc thế chấp tài
sản: 01 bộ của bà Phượng; 01 bộ của vợ chồng ông Duyên, bà Loan; trong mỗi bộ
đều có: Biên bản định giá tài sản và Biên bản bàn giao tài sản cùng đề ngày
03-9-2007; Đơn yêu cầu đăng ký thế chấp (ngày 29-01-2008 của bà Phượng; ngày
25-6-2008 của ông Duyên, bà Loan). Tuy nhiên, trong các Biên bản và Đơn yêu cầu
đăng ký thế chấp này cũng không nói rõ bảo đảm cho khoản vay của hợp đồng tín
dụng nào.
Tòa án cấp phúc thẩm nhận định
(tóm tắt): “Các Biên bản giao nhận hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh
giữa Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long với bà Phượng,
vợ chồng ông Duyên, bà Loan lập ngày 03-9-2007 đều có nội dung thế chấp, cầm
cố, bảo lãnh cho các nghĩa vụ của Công ty cổ phần dược phẩm Kaoli tại Ngân
hàng...nên xác định đây là một hợp đồng…”. Và Tòa án cấp phúc thẩm tuyên xử:
“Các Biên bản bàn giao hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh ngày 03-9-2007
giữa Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long với bà Nguyễn
Thị Phượng và vợ chồng ông Nguyễn Đăng Duyên, bà Đỗ Thị Loan là hợp đồng bảo
lãnh (các bút lục số 52, 58a)” và “Trong trường hợp Công ty cổ phần dược phẩm
Kaoli không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ trả nợ không đầy đủ cho
Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam, thì Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam
có quyền yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội xử lý tài sản bảo lãnh
theo quy định của Luật thi hành án dân sự để thu hồi nợ theo trách nhiệm bảo
lãnh của người bảo lãnh”.
Nhận định và quyết định trên đây
của Tòa án cấp phúc thẩm là không có căn cứ và không đúng pháp luật. Bởi lẽ:
- Biên bản
giao nhận hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh ngày 03-9-2007 giữa bà Nguyễn Thị Phượng
(cũng như giữa ông Duyên, bà Loan) với Vietcombank - Chi nhánh Thăng Long không
phải là hợp đồng bảo lãnh như Tòa án cấp phúc thẩm xác định.
Tại phiên tòa phúc thẩm ngày
17-8-2011 đại diện Vietcombank cũng chỉ xác định: “Biên bản bàn giao tài sản,
biên bản định giá tài sản là một bộ phận không thể tách rời hợp đồng thế chấp
tài sản”.
- Theo Biên bản giao nhận hồ sơ
tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, Biên bản định giá tài sản và trình bày của
đại diện Vietcombank tại phiên tòa phúc thẩm thì ngày giao nhận hồ sơ và định
giá tài sản là ngày 03-9-2007. Còn hợp đồng thế chấp giữa bà Phượng (cũng như
giữa ông Duyên, bà Loan) với Vietcombank - Chi nhánh Thăng Long được ký vào
ngày 25-6-2008 (sau ngày lập Biên bản giao nhận hồ sơ tài sản và Biên bản định
giá tài sản) nên không thể coi các Biên bản này là một bộ phận không thể tách
rời của Hợp đồng thế chấp nói trên. Tòa án cấp phúc thẩm cũng xác định: “Hợp
đồng thế chấp ngày 25-6-2008... không liên quan đến các biên bản giao nhận hồ
sơ…”.
- Theo ngày ghi trong biên bản và
trình bày của đại diện Vietcombank tại phiên tòa phúc thẩm thì ngày giao hồ sơ
(bản chính Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở) và ngày
định giá tài sản là ngày 03-9-2007, nhưng trong các Biên bản định giá tài sản
này lại ghi: “Căn cứ Bảng giá đất tại các quận tại Hà Nội ban hành kèm theo
Quyết định số 150/2007/QĐUBND ngày 28-12-2007 của Uỷ ban nhân dân thành phố Hà
Nội” và Biên bản này là bộ phận không thể tách rời của Hợp đồng thế chấp số
1678.2008/HĐTC và số 1677.2008/HĐTC ngày 25-6-2008. Riêng đối với trường hợp
của bà Phượng, giá trị quyền sử dụng đất ở được xác định theo Biên bản xác định
giá đất thực tế ngày 04-9-2007 và Đơn yêu cầu đăng ký thế chấp của bà Phượng đề
ngày 29-01-2008 ghi: “Hợp đồng thế chấp số 1678.2008/HĐTC ký ngày 25 tháng 6
năm 2008”. Mặt khác, theo trình bày và tài liệu do bà Phượng, vợ chồng ông
Duyên, bà Loan xuất trình thì tại thời điểm ngày 03-9-2007 nhà, đất của bà
Phượng đang được thế chấp tại Chi nhánh ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn Quảng An, quận Tây Hồ, đến ngày 11-01-2008 mới được giải chấp; còn
nhà, đất của vợ, chồng ông Duyên, bà Loan đang được thế chấp tại Ngân hàng
thương mại cổ phần ngoài quốc doanh Việt Nam - Chi nhánh Thăng Long, đến ngày
16-01-2008 mới được giải chấp.
Với các chứng cứ nêu trên có căn
cứ để kết luận: Biên bản giao nhận hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh và
Biên bản định giá tài sản không phải được lập vào ngày 03-9-2007, Giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở không phải được giao vào ngày
03-9-2007, việc định giá không được thực hiện vào ngày 03-9-2007 như đại diện
Vietcombank trình bày và được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận.
Tại thời điểm ngày 03-9-2007, thì
Hợp đồng thế chấp, bảo lãnh tài sản bằng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền
trên đất phải được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 130 Luật Đất đai 2003; tại điểm a mục 1 Điều 12 Nghị định
163/NĐ-CP ngày 29-12-2006 và tại tiểu mục 2.4 mục 2 Thông tư liên tịch số
03/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày 13-6-2006; chứ không phải công chứng và không phải
đăng ký giao dịch bảo đảm như Tòa án cấp phúc thẩm nhận định.
Tòa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ
ngoài các tài liệu nêu trên còn có tài liệu, chứng cứ nào khác để chỉ dẫn các
hợp đồng thế chấp do bà Phượng và vợ chồng ông Duyên, bà Loan ký là được bảo
lãnh cho 04 hợp đồng tín dụng của Công ty Kaoli hay không mà lại cho rằng các
biên bản bàn giao hồ sơ là hợp đồng bảo lãnh là không đúng, không chính xác. Vì
Biên bản này không thể là hợp đồng bảo lãnh, khi xét cả về mặt hình thức và nội
dung văn bản.
- Nếu có căn cứ cho rằng các Hợp
đồng thế chấp ngày 25-6-2008 của bà Phượng và của vợ chồng ông Duyên, bà Loan
bảo lãnh cho các hợp đồng tín dụng nêu trên thì hợp đồng bảo lãnh của bà Phượng
chỉ bảo đảm cho khoản vay và bảo lãnh cao nhất là 4.605.000.000 đồng; hợp đồng
bảo lãnh của vợ chồng ông Duyên, bà Loan bảo đảm cho khoản vay và bảo lãnh cao
nhất là 1.250.000.000 đồng. Trong khi đó, Tòa án cấp phúc thẩm nhận định các
Biên bản giao nhận hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh lập ngày 03-9-2007
là hợp đồng bảo lãnh và tuyên: “Trong trường hợp Công ty Cổ phần Dược phẩm
Kaoli không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ trả nợ không đầy đủ cho
Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam, thì Ngân hàng Thương mại Cổ
phần Ngoại thương Việt Nam có quyền yêu cầu Cục thi hành án dân sự thành phố Hà
Nội xử lý tài sản bảo lãnh theo quy định của Luật thi hành án dân sự để thu hồi
nợ theo trách nhiệm bảo lãnh của người bảo lãnh” có nghĩa là bà Phượng, ông
Duyên, bà Loan phải chịu trách nhiệm bảo lãnh cho toàn bộ số nợ của Công ty
Kaoli và không phân định rõ trách nhiệm bảo lãnh của bà Phượng, ông Duyên và bà
Loan cũng là không đúng.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm và
Tòa án cấp phúc thẩm quyết định: “Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và
người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án còn
phải trả lãi đối với số tiền chậm thi hành án theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng
Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm thi hành án” cũng là không đúng.
Đối với các khoản tiền vay của tổ chức Ngân hàng, tín dụng, ngoài khoản tiền nợ
gốc, lãi vay trong hạn, lãi vay quá hạn, phí mà khách hàng vay phải thanh toán
cho bên cho vay theo hợp đồng tín dụng tính đến ngày xét xử sơ thẩm, thì kể từ
ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu
khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà
các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.
Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh
lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách
hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho
Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù
hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.
Bởi các lẽ trên, căn cứ vào khoản
3 Điều 291, khoản 3 Điều 297, Điều 299 của Bộ luật tố tụng dân sự (đã được sửa
đổi, bổ sung năm 2011),
QUYẾT ĐỊNH:
1. Hủy Bản án
kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 148/2011/KDTM-PT ngày 17-8-2011 của Tòa phúc
thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử vụ án kinh doanh, thương mại
tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa nguyên đơn là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại
thương Việt Nam với bị đơn là Công ty cổ phần dược phẩm Kaoli và người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Nguyễn Thị Phượng, ông Nguyễn Đăng Duyên, bà Đỗ
Thị Loan.
2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc
thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định
của pháp luật.
NỘI DUNG ÁN LỆ
“Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp
phúc thẩm quyết định: “Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và người được
thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, người phải thi hành án còn phải trả lãi
đối với số tiền chậm thi hành án theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước
công bố tương ứng với thời gian chậm thi hành án” cũng là không đúng. Đối với
các khoản tiền vay của tổ chức Ngân hàng, tín dụng, ngoài khoản tiền nợ gốc,
lãi vay trong hạn, lãi vay quá hạn, phí mà khách hàng vay phải thanh toán cho
bên cho vay theo hợp đồng tín dụng tính đến ngày xét xử sơ thẩm, thì kể từ ngày
tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản
tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các
bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này.
Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh
lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách
hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa
án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng
cho vay”.
Nguồn: Trang tin điện tử về án lệ (anle.toaan.gov.vn)
0 Nhận xét